Thiếu hầu hết hoặc toàn bộ mô mống mắt ở cả hai mắt
Đi kèm với đục thể thủy tinh, glôcôm, tân mạch giác mạc, sẹo giác mạc, giảm sản hố hoàng điểm và rung giật nhãn cầu.
Thường di truyền gen trội ở nhiễm sắc thể thường (hai phần ba số ca). Một phần ba các ca còn lại không di truyền, xuất hiện rải rác và liên quan đến mất nhiễm sắc thể số 11 (đột biến gen PAX 6). Vì gen gây khối u Wilm (WTI) nằm cạnh nhiễm sắc thể số 11, những trẻ này có nguy cơ cao trong việc phát triển khối u Wilm trong những năm đầu đời,
Nếu có thể, những trường hợp không mống mắt xuất hiện rải rác nên được xét nghiệm di truyền để đánh giá nguy cơ phát triển khối u Wilm. Nếu không, nên siêu âm bụng nhiều lần và đánh giá kết quả cẩn thận bởi bác sỹ chuyên khoa Nhi với tần suất được khuyến nghị:
0 đến 5 tuổi: thực hiện mỗi 3 tháng
6 đến 10 tuổi: thực hiện mỗi 6 tháng
11 đến 16 tuổi: thực hiện hàng năm
Mặc dù đục thể thủy tinh phổ biến trong tất cả các trường hợp không có mống mắt, cần lưu ý rằng những bệnh nhân này thường bị suy giảm thị lực đáng kể do các yếu tố khác như giảm sản hố hoàng điểm và rung giật nhãn cầu thứ phát. Do đó, hầu hết các trường hợp đục thể thủy tinh nhẹ đến trung bình ở những bệnh nhân này không cần can thiệp phẫu thuật.
Dị tật biến đổi ở mắt do sự tồn lưu bất thường của mạch máu phôi thai. Có thể bao gồm một số hoặc tất cả các đặc điểm lâm sàng sau:
Tồn lưu màng đồng tử
Tua thể mi bị kéo căng
Mạch máu dịch kính – mống mắt
Tồn lưu bao xơ mạch sau thể thủy tinh
Tồn lưu động mạch dịch kính
Nhú Bergmeister
Bong võng mạc hình lều bẩm sinh
Bất thường hoàng điểm
Bất thường thần kinh thị giác
Tật mắt nhỏ
Chấm Mittendorf
Bất thường thường xuất hiện rải rác, ở một mắt
Nguyên nhân đục thể thủy tinh một mắt phổ biến nhất ở mắt nhỏ hơn mắt bình thường
Dưới 10% trường hợp xuất hiện ở cả hai mắt
Hiếm khi đi kèm với các bất thường toàn thân khác
Hướng điều trị là giải phóng lực kéo trên thể mi và võng mạc
Phẫu thuật được thực hiện tốt nhất bằng cách sử dụng dụng cụ cắt dịch kính để loại bỏ đục thể thủy tinh, mô sau thể thủy tinh và phần trước của cuống mạch dịch kính tồn lưu, bằng cách tiếp cận trước (vùng rìa) hoặc sau (pars plana).
Những mắt này có xu hướng nhỏ hơn bình thường đáng kể, ảnh hưởng lớn đến bao thể thủy tinh, vì vậy không phù hợp để đặt kính nội nhãn.